Tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng nông sản; khắc phục được tính mùa vụ, bảo vệ môi trường, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản là những ưu thế vượt trội mà sản xuất nông nghiệp công nghệ cao mang lại.
Sáng ngày 21/05/2022, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Thừa Thiên Huế phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội thảo “Ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại tỉnh Thừa Thiên Huế”. Tham dự Hội thảo, có các chuyên gia, nhà khoa học giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng chủ trì Hội thảo có bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ NN&PTNT; ông Hồ Thắng – Giám đốc Sở KH&CN và ông Nguyễn Long An, Phó Giám đốc Sở NN&PTNN.

Các đồng chí đồng chủ trì Hội thảo
Khoa học công nghệ - mũi nhọn trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0, KH&CN đang dần thâm nhập vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, KHCN đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp vô cùng quan trọng, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Đồng thời, mở ra triển vọng to lớn cho xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, ông Hồ Thắng – Giám đốc Sở KH&CN nhấn mạnh: “Ngành KHCN xác định sứ mệnh luôn đồng hành cùng với các ngành kinh tế - xã hội, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp - trụ đỡ của nền kinh tế. Trong thời gian tới, Sở KH&CN sẽ tham mưu bổ sung chính sách hỗ trợ ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) trên địa bàn tỉnh vào Nghị quyết số 20/2020/NQ-HĐND ngày 23/12/2020 của HĐND tỉnh và Chương trình Ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tỉnh giai đoạn 2022 – 2030. Đây là một trong những giải pháp đột phá để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững. Tôi mong rằng, tất cả các sở, ban, ngành, cộng đồng người dân, doanh nghiệp cùng đồng lòng, phối hợp chặt chẽ để triển khai, thực hiện hiệu quả các chính sách, chương trình trong thời gian tới, góp phần thay đổi diện mạo mới cho nền nông nghiệp của tỉnh nhà”.
Bàn về những định hướng, chính sách phát triển NNCNC cho tỉnh Thừa Thiên Huế, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và PTNT cho rằng: “Cần chú trọng nghiên cứu, sản xuất các danh mục sản phẩm công nghệ cao (CNC) khuyến khích phát triển. Tập trung hỗ trợ ứng dụng CNC trong triển khai các dự án phục vụ phát triển thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực của địa phương. Hỗ trợ ứng dụng CNC để phát triển các sản phẩm có thể thay thế sản phẩm nhập khẩu. Hỗ trợ doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN triển khai các dự án NNUDCNC trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ KH&CN, các kết quả chuyển giao công nghệ. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp NNUDCNC tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, xây dựng phát triển vùng NNUDCNC cao. Rà soát hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm thúc đẩy nghiên cứu, làm chủ và phát triển công nghệ cao, UDNNCNC. Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ cao, hợp tác quốc tế về CNC. Đồng thời, tăng cường nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và tác động của công nghệ cao đối với việc ứng dụng CNC trong quá trình sản xuất nông nghiệp”.
Với quan điểm “Sản xuất NNUDCNC phải là sự nghiệp của toàn dân” vì vậy sản xuất NNCNC không chỉ tại các tại các khu tập trung CNC mà cần phải nhân rộng ra tại hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu thụ lương thực thực phẩm, làm động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bàn về quan điểm phát triển sản xuất NNUDCNC tại Thừa Thiên Huế, PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, Nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam chia sẻ: “Sản xuất NNUDCNC phải có mục tiêu “ứng dụng” và “thương mại”, phải tích hợp đa giá trị cả về kinh tế, và cả trách nhiệm xã hội, thân thiện với môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển NNUDCNC phải có bước đi cụ thể, tránh phong trào, đi từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, phù hợp với năng lực đầu tư của doanh nghiệp, người dân. Sản phẩm lựa chọn trong sản xuất NNUDCNC phải có sự khác biệt, tập trung các sản phẩm chủ lực, đặc sản của tỉnh có lợi thế cạnh tranh cao, có quy mô sản xuất lớn, còn dư địa thị trường và có thể truy xuất nguồn gốc. Ứng dụng hài hòa công nghệ tiên tiến với công nghệ truyền thống, kiến thức bản địa. Huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất có tính quyết định, là lực “kéo” của sản xuất”.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, trong đó nền nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng. Do đó, trong thời gian tới cần phải xác định ứng dụng KH&CN và Đổi mới sáng tạo trong sản xuất NNCNC là một trong những giải pháp then chốt, trọng tâm phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại và bền vững.
Để phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp an toàn theo hướng bền vững, cần thiết phải ứng dụng công nghệ gen và công nghệ vi sinh trong sản xuất NNCNC. Liên quan đến vấn đề này, GS.TS. Nguyễn Hoàng Lộc, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế cho biết: “Hiện nay, sự phát triển vượt bậc của KH&CN đã thúc đẩy sự phát triển của công nghệ sinh học, công nghệ gen thông qua việc lựa chọn các đặc điểm ưu việt như tăng năng suất, có khả năng kháng sâu bệnh, chống chịu hạn và kháng thuốc diệt cỏ… nhằm lai tạo ra các giống cây trồng và vật nuôi chuyển gen mang các đặc điểm mong muốn về hương vị, màu sắc của hoa, tốc độ sinh trưởng, kích thước và trọng lượng của sản phẩm thu hoạch cũng như khả năng kháng sâu bệnh. Hiện nay, việc nghiên cứu và thúc đẩy cây trồng chuyển gen kháng thuốc trừ cỏ đã chiếm ưu thế trong cây trồng chuyển gen, cho đến nay đã có nhiều giống cây trồng kháng thuốc trừ cỏ được tạo ra bằng công nghệ chuyển gen trên bông, ngô, đậu tương và cải dầu đã mở ra nhiều hy vọng mới trong việc phòng chống và kiểm soát dịch bệnh và sâu bệnh hại cây trồng.
Thực tế cho thấy, không ai có thể phủ nhận được tác dụng của phân bón trong trồng trọt, hầu hết các loại phân bón đều có vai trò quan trọng giúp cho các loại cây trồng có sự phát triển tốt nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các nguyên liệu đầu vào khác đã gây ra những tác động xấu đến đất canh tác và chất lượng môi trường. Do đó, áp dụng công sinh học trong quá trình sản xuất NNCNC bằng phân sinh học, thuốc trừ sâu sinh học, dược liệu sinh học dựa vào virus sẽ giúp chúng ta có giải pháp tốt hơn để kiểm soát dịch bệnh và côn trùng gây hại, tạo ra các sản phẩm có giá trị thân thiện với môi trường, giúp nền nông nghiệp phát triển một cách bền vững, ông Nguyễn Hoàng Lộc thông tin thêm.
Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp phải đồng bộ và toàn diện
Để phát triển nông nghiệp toàn diện cần tập trung phát triển toàn diện trên cả 3 lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng. Tập trung phát triển nông nghiệp theo định hướng của tỉnh, ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, VietGAP. Phát triển những sản phẩm đặc sản, sản phẩm chủ lực của địa phương, các sản phẩm OCOP gắn phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển du lịch.
Bàn về giải pháp UDCNC trong chăn nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế, bà Hồ Lê Quỳnh Châu, Khoa Chăn nuôi, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế cho rằng:“Để phát triển ngành chăn nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế một cách hiệu quả, cần có giải pháp đồng bộ từ các khâu quy hoạch chăn nuôi, kỹ thuật và tổ chức sản xuất. Cần xây dựng một bản quy hoạch tổng thể về đất đai phục vụ cho chăn nuôi, đối tượng vật nuôi cần tác động công nghệ cao và vùng sản xuất nguyên liệu thức ăn. Có các giải pháp quy hoạch về chăn nuôi gia súc, gia cầm phù hợp theo từng địa bàn cả về số lượng, chủng loại để không bị quá tải gây ô nhiễm môi trường. Chú trong khai thác và phát triển các giống vật nuôi mang nguồn gen bản địa như gà thả vườn, vịt cỏ, lợn cỏ. Đẩy mạnh chăn nuôi an toàn sinh học theo hướng hữu cơ, chăn nuôi theo chuỗi giá trị nhằm cung cấp sản phẩm chăn nuôi chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Ngoài ra, cũng cần khai thác và quản lý tốt các nguồn gen ngoại nhập. Đối với giải pháp về thức ăn chăn nuôi tỉnh Thừa Thiên Huế cần xây dựng bản quy hoạch vùng sản xuất thức ăn chăn nuôi mang tính hàng hóa, đảm bảo cung ứng nguồn thức ăn quanh năm cho gia súc, gia cầm; áp dụng công nghệ vi sinh bằng các phương pháp lên men, tận dụng các loại phế phụ phẩm từ nông nghiệp giúp giải quyết được nguồn thức ăn quanh năm một cách hiệu quả. Về giải pháp tổ chức sản xuất, tập trung phát triển các nông hộ, trang trại, tổ chức lại theo hình thức các Hiệp hội, Tổ hợp tác để sản xuất theo chuỗi, tạo ra các sản phẩm cạnh tranh. Đây được xem là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu tập thể cho sản phẩm chăn nuôi ở từng vùng.”
Tại Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Trưởng khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã có bài tham luận đưa ra giải pháp ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy, hải sản trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo đó “để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất nuôi trồng thủy sản trong toàn tỉnh cần phải đặt ra các giải pháp dựa trên việc ứng dụng công nghệ cao như: phân vùng, quy hoạch những vùng nuôi có thể áp dụng công nghệ cao. Đẩy mạnh UDCNC vào công tác sản xuất giống đảm bảo nguồn giống tốt, phục vụ sản xuất. Hỗ trợ nghiên cứu khoa học về sản xuất giống, chọn lọc, chỉnh sửa gen để tạo ra giống mới có ưu thế tốt, lưu giữ các nguồn gen bản địa. Đẩy mạnh sử dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy, hải sản, tổ chức tập huấn cho người dân các công nghệ nuôi hiện đại như: Công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh; công nghệ biofloc; công nghệ nuôi tôm tuần hoàn (RAS). Hỗ trợ, chú trọng phát triển các nghiên cứu nâng cao sức khỏe động vật thủy sản thông qua các nghiên cứu sản xuất vaccine cho vật nuôi thủy sản. Đẩy mạnh việc sản xuất, làm chủ công nghệ chẩn đoán bệnh nhanh trên động vật thủy sản, hỗ trợ người dân trong việc sử dụng các thiết bị hiện đại, thông minh để người nuôi dễ dàng tiếp cận thông tin về biến động môi trường, cách phòng và xử lý dịch bệnh nhằm hạn chế rủi to trong quá trình nuôi”.
Ứng dụng KHCN, chuyển giao công nghệ trong thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản giúp giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch, nâng cao phẩm chất sản phẩm, giá trị và an toàn thực phẩm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Đảm bảo công tác an ninh lương thực cho quốc gia.
Liên quan đến vấn đề này, PGS.TS. Nguyễn Văn Toản, Trưởng khoa Cơ khí và Công nghệ, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế cho biết: “UDCNC trong lĩnh vực bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch là ứng dụng hợp lý những công nghệ mới, tiên tiến như sử dụng công nghệ xung điện trường, công nghệ này được ứng dụng thanh trùng nước trái cây, sữa, các loại nước sốt…đặc biệt, các loại thực phẩm dễ biến tính, hư hỏng khi xử lý nhiệt độ cao, giúp tiêu diệt tế bào vi sinh vật, bảo toàn các chất màu, hương thơm và dinh dưỡng có trong thực phẩm, không độc và thời gian xử lý ngắn. Hay công nghệ sử dụng các chất kháng ethylene nhằm kéo dài thời gian bảo quản nông sản sau thu hoạch sẽ giúp nâng nâng cao hiệu quả bảo quản cũng như duy trì tốt chất lượng nông sản”.
Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đồng bộ và toàn diện sẽ là chìa khóa giải quyết bài toán thách thức của tỉnh Thừa Thiên Huế cũng như phát huy nền nông nghiệp đúng tầm, tương xứng với tiềm năng vốn có của địa phương.